
Giới thiệu
Ngày nay người ta dành một sự quan tâm đặc biệt đến các bệnh lý ung thư và vấn đề điều chỉnh lối sống để phòng ngừa ung thư, trong đó việc lựa chọn thực phẩm lành mạnh là một trong những giải pháp được đặt lên hàng đầu. Cà phê và trà là những thức uống chứa cafein được ưa chuộng nhất trên thế giới và dường như không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt thường ngày của con người. Bên cạnh đó, lượng tiêu thụ của một số loại soda, nước ngọt có chứa cafein cũng nhiều không kém. Khoảng 90% người lớn tiêu thụ cafein mỗi ngày [1]. Nhiều thành phần hóa học như cafein và một số chất chống oxy hóa chứa trong các loại đồ uống này đem lại cả lợi ích và những tác hại nhất định đến sức khỏe.
Cafein ảnh hưởng lên nhiều cơ quan của cơ thể như hệ thần kinh, hệ tuần hoàn, hệ nội tiết và hệ tiêu hóa. Sự ảnh hưởng này thay đổi tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác như yếu tố di truyền, tuổi, giới tính, sử dụng thuốc và môi trường sống [1]. Mặc dù trong cà phê rang xay có chứa acrylamide – chất sinh ung thư ở người đã được biết đến [2], hầu hết các nghiên cứu đều kết luận rằng không có mối liên quan giữa các đồ uống chứa cafein với bất kỳ bệnh ung thư nào [1]. Năm 2015, Ủy ban Tư vấn Hướng dẫn chế độ ăn uống của Mỹ cho rằng có thể uống tối đa 5 cốc cà phê mỗi ngày [3]. Cafein có tác dụng ngăn ngừa ung thư bằng cách thúc đẩy quá trình điều hòa bởi tín hiệu trung gian là yếu tố đáp ứng các chất chống oxy hóa (ARE) nằm ở vùng gen khởi động, đồng thời trong cà phê có chứa các hợp chất phenolic có tác dụng chống oxy hóa, chống viêm và diterpen có tiềm năng chống ung thư [4].
Ung thư hệ tiêu hóa
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa cà phê và khả năng giảm nguy cơ các bệnh ung thư hệ tiêu hóa, đặc biệt là ung thư vòm họng và ung thư gan. [1]
· Ung thư vòm họng: Một phân tích tổng hợp gồm 4 nghiên cứu thuần tập và 13 nghiên cứu bệnh chứng đã đưa ra kết luận rằng có mối tương quan nghịch giữa lượng tiêu thụ cà phê và nguy cơ ung thư miệng và hầu họng, điều này chứng tỏ cà phê có thể chống lại các loại ung thư này (pooled OR 0.69, 95% Cl 0.57-0.84, p<.001) [5].
· Ung thư gan: Nhiều nghiên cứu quan sát đã chứng minh được vai trò bảo vệ cơ thể trước ung thư gan, bao gồm ung thư biểu mô tế bào gan của cà phê. Một phân tích tổng hợp đã chỉ ra rằng uống một cốc cà phê mỗi ngày sẽ giảm nguy cơ ung thư gan xuống 15% (RR .85, 95% Cl .82-.88) [4]. Ngoài tác dụng thúc đẩy quá trình chống oxy hóa của yếu tố đáp ứng các chất chống oxy hóa ARE và yếu tố phiên mã Nrf2 thông qua cafein, các thành phần hóa học khác trong cà phê góp phần làm tăng biểu hiện gen của NAD(P)H: quinon oxidoreductase 1, glutathion S-transferase A1, UDP-glucuronosyl transferase 1A6 và tiểu đơn vị xúc tác glutamate-cysteine ligase, tất cả đều dẫn đến đáp ứng chống oxy hóa của gan [6].
· Ung thư đường mật: Nghiên cứu trên cho rằng chưa đủ cơ sở để đưa đến kết luận về mối tương quan giữa cà phê và ung thư đường mật, hoặc có thể nói uống cà phê giúp giảm nguy cơ ung thư gan nhưng không với ung thư đường mật [4]. Một nghiên cứu xuôi thời gian khác tại Nhật Bản cũng cho thấy không có tương quan rõ ràng giữa cà phê và ung thư đường mật, túi mật và ống mật ngoài gan, nhưng uống nhiều trà xanh có thể giảm nguy cơ ung thư đường mật [7].
· Ung thư đại trực tràng: Mối quan hệ giữa cà phê và nguy cơ ung thư đại trực tràng còn gây nhiều tranh cãi. Kết luận uống cà phê nhiều giúp giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng đã được báo cáo trong một phân tích tổng hợp gồm 12 nghiên cứu bệnh chứng, và 3 nghiên cứu khác: một đến từ nghiên cứu về chế độ ăn uống và sức khỏe của Viện Sức khỏe Quốc gia (NIH-AARP), một đến từ nghiên cứu Dịch tễ học phân tử của Ung thư đại trực tràng (MECC) ở Israel và một đến từ Nhật Bản [8].
Ung thư phổi
Nhiều phân tích tổng hợp nhận định cà phê có chứa cafein làm tăng nguy cơ ung thư phổi, trong khi cà phê không chứa cafein và trà xanh lại làm giảm nguy cơ này [1]. Tuy nhiên, điều này chỉ có nghĩa khi trong nghiên cứu tình trạng hút thuốc lá được phân loại, bởi hút thuốc lá có thể trở thành yếu tố gây nhiễu. Nghiên cứu về chế độ ăn uống và sức khỏe của NIH-AARP đã nhìn nhận ung thư phổi có liên quan đến uống cà phê, dù con số này đã giảm đáng kể sau khi họ điều chỉnh yếu tố thuốc lá [9]. Nghiên cứu cũng nhận thấy, cà phê liên quan nhiều hơn đến ung thư biểu mô tuyến, trong khi ung thư biểu mô tế bào vảy liên quan đến hút thuốc lá nhiều hơn [9]. Hơn nữa, cà phê có chứa cafein liên quan đến ung thư biểu mô tuyến nhiều hơn, trong khi cà phê không chứa cafein chủ yếu liên quan đến ung thư biểu mô tế bào nhỏ [9]. Tuy vậy, trên thực tế, những người “nghiện” cà phê số đông thường thấy ở đàn ông – đồng thời là đối tượng hút nhiều thuốc lá đáng quan tâm, do đó không thể loại trừ khả năng gây nhiễu số liệu của thuốc lá. Trong nhiều nghiên cứu khác, những ca mắc mới hoặc tử vong do ung thư phổi đều được tìm thấy ở những người hút thuốc lá, dù là nghiên cứu đã hạn chế số người hút thuốc lá hay những nghiên cứu lớn đã phân tầng người hút thuốc [9]. Song ta vẫn không thể phủ nhận sự tồn tại của mối liên quan đã được đề cập.
Ung thư vú
Quan hệ giữa thức uống chứa cafein và ung thư vú vẫn chưa được khẳng định. Trong một nghiên cứu bệnh chứng gồm 1690 phụ nữ đột biến gen BRCA1 hoặc BRCA2 tham gia đã kết luận uống cà phê không có hại và thậm chí uống nhiều cà phê có thể làm giảm nguy cơ ung thư vú [1]. Một nghiên cứu bệnh chứng khác gồm 1932 người lần đầu mắc ung thư vú chỉ ra những người uống nhiều hơn 4 cốc cà phê mỗi ngày có khả năng giảm nguy cơ mắc ung thư vú xuống 40% (OR .62, 95% Cl .39-.98) [1]. Trong nghiên cứu này, trà đen hoặc đồ uống không chứa cafein không được ghi nhận tác dụng gây hại hay bảo vệ [1]. Tại Pháp, 4396 phụ nữ chưa từng có tiền sử mắc ung thư đã tham gia vào một nghiên cứu được theo dõi trung bình 6.6 năm, mà tại đó người ta kết luận trà thảo mộc giúp làm giảm nguy cơ mắc ung thư vú; cà phê hay trà đen không được ghi nhận tác dụng này [1]. Theo nghiên cứu thuần tập tương lai Sức khỏe Phụ nữ, không có mối liên quan giữa ung thư vú và cà phê, trà, nước ngọt chứa cafein, socola hoặc các đồ uống không chứa cafein [10]. Ngược lại, đã có một nghiên cứu in vitro chứng minh rằng trigonelline – một phytoestrogen được tìm thấy trong hạt cà phê, gây kích thích tế bào ung thư vú tăng trưởng ngay ở nồng độ thấp thông qua cơ chế kích thích tăng trưởng tế bào MCF-7 (tế bào ung thư vú phụ thuộc estrogen) [11]. Ngoài ra, cafein được cho là chất đối kháng với thụ thể adenosine – một thụ thể đã được chứng minh là ngăn chặn sự phát triển của các tế bào ung thư vú, vì vậy gián tiếp gây ra ung thư [12].
Ung thư nội mạc tử cung
Các đồ uống chứa cafein liệu có gây ung thư nội mạc tử cung hay không vẫn còn là một câu hỏi. Tại Canada, một nghiên cứu về mối liên quan này đã đưa ra cơ sở chắc chắn rằng đồ uống chứa cafein làm giảm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung, mặt khác tác giả cũng đưa ra nhiều bằng chứng từ nhiều nghiên cứu khác nhau để khẳng định giả thuyết này [12]. Một phân tích tổng hợp được thực hiện năm 2015 với 12 nghiên cứu quan sát không tìm ra mối liên hệ giữa uống trà và nguy cơ ung thư nội mạc tử cung (RR .97, 95% Cl .93-1.01) [1]. Cùng năm, 16 nghiên cứu quan sát khác được phân tích tổng hợp cũng cho ra kết quả uống cà phê giúp giảm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung, khảo sát việc uống 1 cốc cà phê bằng nghiên cứu hồi cứu (RR .91, 95% Cl .87-.95) và tiền cứu (RR .96, 95% Cl .95-.98) [1]. Các yếu tố nguy cơ khác như rối loạn chu kỳ kinh nguyệt và khả năng sinh sản nếu không điều chỉnh hợp lý cũng sẽ làm ảnh hưởng đến kết quả.
Ung thư buồng trứng
Không tìm thấy nhiều nghiên cứu có thể định danh mối liên quan giữa đồ uống chứa cafein và nguy cơ ung thư buồng trứng. 14 nghiên cứu thuần tập trong một phân tích tổng hợp được công bố năm 2019 đã tuyên bố không có cơ sở thống kê chứng tỏ mối liên quan giữa lượng cafein hay các loại cà phê khác nhau với nguy cơ ung thư buồng trứng [13]. Kết luận tương tự cũng được đưa ra trong một phân tích tổng hợp khác cùng năm nghiên cứu trên 8568 bệnh nhân mắc bệnh ung thư buồng trứng (OR .89, 95% Cl .55-1.45) [14].
Ung thư bàng quang
Những nghiên cứu được thực hiện trước đó khảo sát lượng tiêu thụ cafein với các bệnh ung thư hệ tiết niệu nhận thấy có sự tăng nguy cơ nhẹ mắc ung thư bàng quang đối với những người uống cà phê [1]. Tuy nhiên nghiên cứu cũng cho thấy yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư bàng quang có một phần góp mặt của thuốc lá, nên vẫn chưa thể khẳng định chính xác mối liên hệ giữa cà phê và nguy cơ gia tăng tỷ lệ mắc bệnh ung thư bàng quang [1].
Ung thư tuyến tiền liệt
Rất nhiều nghiên cứu đã đưa ra cơ sở chứng minh tác dụng chống ung thư tuyến tiền liệt của cà phê nói riêng và một số thức uống chứa cafein khác. Trong một phân tích tổng hợp gồm 14 nghiên cứu tiền cứu với 864 012 người tham gia, nguy cơ tương đối mắc ung thư tuyến tiền liệt ở những người thường xuyên uống cà phê giảm 11% so với nhóm ít hoặc không uống bao giờ [15]. Bên cạnh mối liên quan giúp làm giảm nguy cơ mắc bệnh, đã có những tác giả khảo sát tác dụng hỗ trợ điều trị ung thư tuyến tiền liệt của cafein. Trong tình trạng nhiều bệnh nhân tiến triển đến giai đoạn kháng thiến (CRPC), đã có nghiên cứu cho thấy phối hợp cafein và atorvastatin có thể là một chiến lược hiệu quả để ức chế sự phát triển khối u và cần được đánh giá lâm sàng [16]. Tại Nhật Bản, một nhóm nghiên cứu khác đã tìm hiểu cơ chế chống ung thư của cà phê và nhận thấy rằng kahweol acetate và cafestol chứa trong hạt cà phê có tác dụng hiệp đồng ức chế sự tăng sinh và di căn của các tế bào ung thư tuyến tiền liệt theo cơ chế chết theo chương trình và ức chế chuyển dạng trung mô – biểu mô (EMT) [15]. Điều này có thể giúp 2 chất trên trở thành ứng cử viên tiềm năng bổ sung vào các liệu pháp điều trị hiện có.
Kết luận
Không chỉ ảnh hưởng đến các bệnh lý ung thư, những thức uống chứa cafein còn có nhiều tác động cả tiêu cực lẫn tích cực lên rất nhiều mặt khác nhau của sức khỏe con người. Mặc dù kiến thức về lợi ích cũng như tác hại của cafein còn nhiều điều chưa rõ và cần được đi sâu hơn tìm hiểu nhưng không thể phủ nhận mức độ lan tỏa mạnh mẽ của loại đồ uống này trên toàn thế giới. Để đảm bảo sức khỏe, với người lớn khỏe mạnh, uống ít hơn 400mg cafein mỗi ngày được cho là an toàn [1]. Với trẻ em và thanh thiếu niên, nên uống ít hơn 2.5mg/kg cafein mỗi ngày [1].
Tài liệu tham khảo
[1] B. Bordeaux, H. R. Lieberman, and L. Park, “Benefits and risks of caffeine and caffeinated beverages,” UpToDate, no. table 1, pp. 1–19, 2015.
[2] M. A. Schouten, S. Tappi, and S. Romani, “Acrylamide in coffee: formation and possible mitigation strategies–a review,” Crit. Rev. Food Sci. Nutr., vol. 0, no. 0, pp. 1–15, 2020.
[3] E. Loftfield and N. D. Freedman, “Coffee and digestive cancers—what do we know, and where do we go?,” Br. J. Cancer, no. December 2019, pp. 2019–2020, 2020.
[4] J. Godos, A. Micek, M. Marranzano, F. Salomone, D. Del Rio, and S. Ray, “Coffee consumption and risk of biliary tract cancers and liver cancer: A dose–response meta-analysis of prospective cohort studies,” Nutrients, vol. 9, no. 9, 2017.
[5] J. Miranda, L. Monteiro, R. Albuquerque, J. Pacheco, Z. Khan, and J. Lopez-lopez, “Coffee is protective against oral and pharyngeal cancer : A systematic review and meta-analysis,” vol. 22, no. 5, 2017.
[6] L. G. Higgins, C. Cavin, K. Itoh, M. Yamamoto, and J. D. Hayes, “Induction of cancer chemopreventive enzymes by coffee is mediated by transcription factor Nrf2 . Evidence that the coffee-specific diterpenes cafestol and kahweol confer protection against acrolein,” vol. 226, pp. 328–337, 2008.
[7] T. Makiuchi et al., “Association between green tea ⁄ coffee consumption and biliary tract cancer : A population-based cohort study in Japan,” vol. 107, no. 1, pp. 76–83, 2016.
[8] A. F. A. Macrae, “Colorectal cancer : Epidemiology , risk factors , and protective factors,” pp. 1–43, 2020.
[9] K. A. Guertin, N. D. Freedman, E. Loftfield, B. I. Graubard, N. E. Caporaso, and R. Sinha, “Coffee consumption and incidence of lung cancer in the NIH-AARP Diet and Health Study,” no. June 2015, pp. 929–939, 2016.
[10] K. Ishitani, J. Lin, and J. E. Manson, “Caffeine Consumption and the Risk of Breast Cancer in a Large Prospective Cohort of Women,” vol. 168, no. 18, pp. 2022–2031, 2015.
[11] C. Beans, K. F. Allred, K. M. Yackley, J. Vanamala, and C. D. Allred, “Trigonelline Is a Novel Phytoestrogen in,” pp. 1833–1838, 2009.
[12] R. Arthur, V. A. Kirsh, and T. E. Rohan, “Associations of co ff ee , tea and ca ff eine intake with risk of breast , endometrial and ovarian cancer among Canadian women,” Cancer Epidemiol., vol. 56, no. May, pp. 75–82, 2018.
[13] A. Salari-moghaddam, A. Milajerdi, P. J. Surkan, B. Larijani, and A. Esmaillzadeh, “Caffeine, Type of Coffee, and Risk of Ovarian Cancer: A Dose – Response Meta-Analysis of Prospective Studies,” vol. 104, no. July, pp. 5349–5359, 2019.
[14] F. Shafiei, A. Salari-moghaddam, A. Milajerdi, and B. Larijani, “Coffee and caffeine intake and risk of ovarian cancer : a systematic review and meta- analysis,” pp. 579–584, 2019.
[15] H. Iwamoto et al., “Coffee diterpenes kahweol acetate and cafestol synergistically inhibit the proliferation and migration of prostate cancer cells,” no. November 2018, pp. 468–479, 2019.
[16] Z. Wang et al., “Atorvastatin and Caffeine in Combination Regulates Apoptosis, Migration, Invasion and Tumorspheres of Prostate Cancer Cells,” 2018.
Chưa có bình luận nào. Hãy là người đầu tiên bình luận!
Nhận thông tin mới nhất về ung thư và các phương pháp điều trị